Công nghệ phát triển một cách chóng mặt. Một thập kỷ trước đây thôi, Tinder, Uber và Instagram còn chưa tồn tại. Và vào thời điểm đó, cũng chẳng có ai đeo các thiết bị công nghệ trên người hay giao tiếp với một trợ lý ảo cả, và Tesla mới chỉ là một ý tưởng.
Thập kỷ tiếp theo dường như sẽ còn phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc hơn thế nữa. Vì vậy, dưới đây là các xu hướng khoa học và công nghệ mới đáng để xem xét trong thập kỷ này.
1. Phương tiện truyền thông tổng hợp (Synthetic media) sẽ khiến bạn không thể phân biệt được đâu là thật, đâu là giả
Chắc bạn cũng đã nghe qua về công nghệ deepfake (công nghệ làm giả video siêu thật), về cơ bản, công nghệ deepfake sẽ thu hình ảnh chất lượng cao khuôn mặt của một đối tượng nhất định, sau đó thay thế hoàn toàn khuôn mặt của một người khác trong video có sẵn. Nhưng công nghệ deepfake chỉ là phần nổi của tảng băng chìm khi đề cập đến phương tiện truyền thông tổng hợp – một khái niệm rộng lớn hơn nhiều về hình ảnh, văn bản, âm thanh và video siêu thực được tạo ra để làm lung lay quan niệm của chúng ta về những gì thực sự mới là ‘thật’ trong thập kỉ tiếp theo.
Hãy thử truy cập vào trang web thispersondoesnotexist.com. Nhấn F5 một vài lần. Không hề có bất cứ một người nào mà bạn nhìn thấy ở trang web này là thật hết. Tuy nhìn giống thật đến không tưởng, những mặt người ở trang web này hoàn toàn được tổng hợp – được tạo ra bởi các Generative Adversarial Network – (tạm dịch Mạng Chống đối Tạo sinh), cùng loại trí thông minh nhân tạo đằng sau nhiều “tác phẩm” deepfake.
Những bức ảnh không có thật này cho thấy phương tiện truyền thông tổng hợp đã phát triển một cách vượt bậc như thế nào trong những năm vừa qua. Ở những nơi khác, cơ quan thông tấn nhà nước của Trung Quốc – Xinh Tân đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về khả năng sử dụng những người phát thanh viên được tạo ra từ phương tiện truyền thông tổng hợp. Mặc dù kết quả còn khá mơ hồ, nhưng nó cho thấy một hướng phát triển của công nghệ này trong tương lai.
Mặc dù các phương tiện truyền thông tổng hợp như vậy có khả năng bùng nổ trong sáng tạo, nhưng nó cũng có khả năng gây hại, bằng cách cung cấp các nguồn cung cấp tin tức giả và thông tin sai lệch.
2. Sẽ có một cuộc cách mạng về robot điện toán đám mây

Một mạng lưới toàn cầu gồm các cỗ máy giao tiếp và học hỏi lẫn nhau có thể tạo ra những quản gia robot.
Cho đến thời điểm hiện tại, robot chỉ thực hiện theo mệnh lệnh. Chúng nhận được chỉ dẫn – chẳng hạn như mang cái này, hoặc chuyển cái kia – và thực hiện nó. Không chỉ vậy, chúng còn làm việc trong các môi trường như nhà máy và nhà kho được thiết kế đặc biệt sao cho phù hợp với chúng.
Công nghệ robot điện toán đám mây hứa hẹn một điều hoàn toàn mới; robot có siêu não bộ và được lưu trữ trong nền tảng điện toán đám mây trực tuyến. Ý nghĩ về những robot này, với công nghệ đám mây thông minh, sẽ linh hoạt hơn trong những công việc mà robot thực hiện và những nơi mà chúng có thể làm việc, thậm chí có thể đủ tinh tế để thực hiện các công việc nhà cho chúng ta.
Google Cloud và Amazon Cloud đều có bộ não robot đang học hỏi và phát triển bên trong những nền tảng điện toán đám mây này. Ước mơ đằng sau robot điện toán đám mây là tạo ra những robot có thể nhìn, nghe, hiểu ngôn ngữ tự nhiên và hiểu thế giới xung quanh.
Một trong những “ông lớn” trong nghiên cứu robot trên nền tảng điện toán đám mây là Robo Brain, một dự án do các nhà nghiên cứu tại các trường đại học Stanford và Cornell ở Mỹ thực hiện. Được tài trợ bởi Google, Microsoft, các tổ chức chính phủ và trường đại học, đội ngũ này đang xây dựng bộ não robot trên nền tảng điện toán đám mây Amazon, học cách tích hợp các hệ thống phần mềm khác nhau và các nguồn dữ liệu khác nhau.
Một dự án khác đáng chú ý là Dự án Robot hàng ngày, của phòng thí nghiệm X, “moonshot factory” tại Alphabet, công ty mẹ của Google. Dự án nhằm phát triển robot đủ thông minh để hiểu được những nơi chúng ta sống và làm việc. Các nhà nghiên cứu cũng đang thực hiện bước đầu – thử nghiệm robot điện toán đám mây trong các văn phòng của Alphabet ở Bắc California. Cho đến nay, các nhiệm vụ rất đơn giản, chẳng hạn như sắp xếp việc tái chế (khá chậm, phòng thí nghiệm X chia sẻ), nhưng đó chính là hình dạng và ý tưởng cho những thế hệ robot trong tương lai.
3. Chúng ta có thể chỉnh sửa DNA để loại bỏ bệnh tật

Công cụ chỉnh sửa gen CRISPR cuối cùng cũng có thể điều trị bệnh ở cấp độ di truyền.
Sự ra đời của những đứa trẻ được chỉnh sửa gen đầu tiên trên thế giới đã gây ra sự náo động vào năm 2018. Hai bé gái sinh đôi có bộ gen được sửa đổi trong các quy trình thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) có DNA được chỉnh sửa bằng công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR, để bảo vệ trẻ khỏi HIV. CRISPR sử dụng enzyme vi khuẩn để nhắm mục tiêu và cắt các chuỗi DNA cụ thể.
Nhà nghiên cứu Trung Quốc, He Jiankui, trưởng nhóm nghiên cứu của thí nghiệm trên, đã bị tống vào tù vì coi thường các hướng dẫn an toàn và không nhận được sự đồng ý của chính phủ.
Nhưng về mặt đạo đức nghiên cứu, CRISPR đã sẵn sàng để điều trị các tình trạng đe dọa tính mạng. Trước những cuộc tranh cãi nãy lửa, các nhà khoa học Trung Quốc đã tiêm tế bào miễn dịch do CRISPR chỉnh sửa vào một bệnh nhân để giúp họ chống lại ung thư phổi.
Vào năm 2018, hai thử nghiệm của Hoa Kỳ sử dụng các kỹ thuật tương tự ở các loại bệnh nhân ung thư đã tỏ ra có hiệu quả, với ba bệnh nhân được báo cáo đã tiếp nhận các tế bào miễn dịch đã được chỉnh sửa.
Chỉnh sửa gen cũng đang được thử nghiệm để điều trị bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm do di truyền, một thử nghiệm đang diễn ra sẽ thu thập và chỉnh sửa tế bào gốc từ máu của bệnh nhân.
4. Chúng ta sẽ bắt đầu thấy những cỗ máy “sống”

Các nhà sinh học tổng hợp đã cải tạo lại cuộc sống của con người trong nhiều thập kỷ nay, nhưng cho đến nay, họ hầu như chỉ loay hoay với các tế bào đơn lẻ – một loại phiên bản cải tiến của biến đổi gen.
Năm 2010, Craig Venter và đội ngũ của ông đã tạo ra tế bào tổng hợp đầu tiên, dựa trên một loại bọ gây bệnh cho dê. Bốn năm sau, một trong những sản phẩm đầu tiên của kỷ nguyên sinh học tổng hợp được tung ra thị trường, khi công ty dược phẩm Sanofi bắt đầu bán thuốc trị sốt rét được sản xuất bởi các tế bào nấm men tái chế.
Tuy nhiên, ngày nay, các nhà sinh học đang bắt đầu tìm cách tổ chức các tế bào đơn lẻ thành tập hợp có khả năng thực hiện các nhiệm vụ đơn giản. Chúng là những cỗ máy nhỏ bé, hay như nhà sinh vật học Josh Bongard tại Đại học Vermont gọi chúng là những “xenobots” (sinh vật được lập trình). Ý tưởng của nghiên cứu này là “đảm nhận” công việc nặng nhọc của thiên nhiên, nơi đã chế tạo ra những cỗ máy nhỏ bé trong hàng tỷ năm.
Hiện tại, đội ngũ của Bongard, sản xuất các xenobots của họ bằng các tế bào da và tim thông thường từ phôi ếch, sản xuất máy móc dựa trên các thiết kế được khắc trên siêu máy tính. Chỉ bằng cách kết hợp hai loại tế bào này, những cỗ máy đã được thiết kế để có khả năng bò qua đáy đĩa petri, đẩy một viên pellet (hạt thuốc nhỏ, hình cầu) xung quanh và thậm chí là chúng còn hợp tác với nhau.
“Nếu bạn cho các xenobot này và các pallet vào trong một đĩa petri, trong một số trường hợp, chúng hoạt động như những con chó chăn cừu nhỏ và đẩy những pallet thành một đống gọn gàng,” Bongard cho biết.
Hệ thống máy tính này chạy một thuật toán tiến hóa đơn giản, ban đầu tạo ra các thiết kế ngẫu nhiên và từ chối hơn 99% trong số chúng – chỉ chọn những thiết kế có khả năng thực hiện nhiệm vụ được yêu cầu trong phiên bản ảo của đĩa petri.
Như Bongard giải thích, các nhà khoa học vẫn phải biến các thiết kế thành hiện thực, xếp lớp và điêu khắc các mô hình tế bào bằng tay. Phần này của quá trình cuối cùng có thể được tự động hóa, sử dụng kỹ thuật in 3D hoặc kỹ thuật để thao tác với các mô hình tế bào bằng điện trường.
Tuy nhiên, bạn không thể gọi những xenobot này là những sinh vật sống, bởi lẽ như chúng không hề ăn hay sinh sản. Vì chúng không sử dụng thức ăn, chúng cũng sẽ chết, hoặc ít nhất là phân hủy, có nghĩa là không có mối nguy hiểm rõ ràng nào đối với môi trường và con người.
Tuy nhiên, kết hợp phương pháp này với các kỹ thuật sinh học tổng hợp truyền thống có thể giúp tạo ra các sinh vật đa bào mới có khả năng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp. Ví dụ, chúng có thể hoạt động như một máy phân phối thuốc có thể phân hủy sinh học và nếu được chế tạo từ tế bào người, chúng cũng sẽ tương thích sinh học, tránh gây ra các phản ứng miễn dịch bất lợi.
Nhưng đó không phải là tất cả, Bongard còn cho biết, “chúng tôi đang xem xét về việc thêm các loại tế bào bổ sung, có thể giống như mô thần kinh, vì vậy những xenobot này sẽ có thể suy nghĩ.”
5. Thung lũng Silicon sẽ cố gắng loại bỏ khí thải carbon

Thế giới công nghệ đang hy vọng có thể hạn chế tác động của biến đổi khí hậu bằng cách loại bỏ khí thải carbon.
Sự thay đổi trong việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch là điều cần thiết, nếu chúng ta muốn giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu chỉ trong khoảng 1,5°C, chúng ta cần hành động để giảm thiểu những tác động xấu nhất của biến đổi khí hậu.
Nhưng đó không phải là tất cả những gì chúng ta có thể làm. Thay vì cố gắng hạn chế lượng khí thải carbon thải ra, chúng ta có khả năng thực sự loại bỏ chúng khỏi bầu khí quyển. Đó là những gì Microsoft tuyên bố sẽ bắt đầu thực hiện, khi vào đầu năm 2020, gã khổng lồ phần mềm này tiết lộ cam kết dấu chân carbon âm tính vào năm 2030. Nhưng đó không phải là tất cả; Microsoft cũng cho biết, đến năm 2050, họ có kế hoạch loại bỏ khỏi môi trường tất cả lượng carbon mà công ty đã thải ra kể từ khi được thành lập vào năm 1975.
Để đạt được mục tiêu đó, sẽ cần phải thực hiện rất nhiều điều, chứ không chỉ đơn giản là chuyển sang các nguồn năng lượng tái tạo, điện khí hóa các phương tiện của mình, hay tích cực trồng rừng. Do đó, Microsoft đang theo dõi sự phát triển của các công nghệ phát thải âm tính bao gồm công nghệ tổng hợp năng lượng sinh học bằng cách thu hồi và lưu trữ carbon (BECCS) và công nghệ thu khí trực tiếp (DAC).
BECCS sử dụng cây và hoa màu để thu giữ carbon khi chúng phát triển. Những cây này sẽ bị đốt cháy để tạo ra điện, nhưng lượng khí thải carbon được thu giữ và lưu trữ sâu dưới lòng đất.
DAC sử dụng quạt để hút không khí thông qua các bộ lọc loại bỏ carbon dioxide, sau đó có thể được lưu trữ dưới lòng đất hoặc thậm chí có khả năng biến thành một loại nhiên liệu tổng hợp carbon thấp.
Cả hai phương pháp nghe có vẻ đầy hứa hẹn nhưng vẫn chưa đạt đến điểm có thể áp dụng vào thực tế hay là có giá cả phải chăng ở quy mô cần thiết để chúng có tác động đáng kể đến biến đổi khí hậu. Microsoft hy vọng con đường để xoay chuyển cuộc khủng hoảng khí hậu chinh là những công nghệ này và các công nghệ khác mà đã và đang được phát triển mạnh mẽ nữa trong những năm vừa qua để giúp chúng có thể áp dụng vào thực tế.
6. Sâu bệnh sẽ bị xua đuổi mà không cần thiết phải giết hại

Các phòng thí nghiệm đang nghiên cứu các ổ gen để chống lại các loài xâm lấn như sóc xám và cóc mía.
Một ứng dụng tiềm năng khác của công nghệ chỉnh sửa gen là quét sạch sâu bệnh. Được mệnh danh là “ổ gen”, một trong những chỉnh sửa tự sao chép dựa trên công nghệ CRISPR đột phá của ngành sinh học. Trong các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, DNA mới được đưa vào sẽ khiến các loài gây hại bị vô sinh, những gen này sẽ tự nhân đôi để ảnh hưởng đến nhiễm sắc thể của loài vật gây hại để nó truyền lại cho tất cả con cái của nó.
Một số loài muỗi đã phát triển khả năng chống lại đột biến ổ gen, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng chúng ta vẫn có thể áp dụng kỹ thuật này miễn là nhắm đúng gen. Để đảm bảo an toàn, các nhà khoa học đang thiết kế các ổ gen “ghi đè” có khả năng đảo ngược các chỉnh sửa.
Trong một bài báo năm 2018, các nhà nghiên cứu từ Học viện Edinburgh Ros Roslin, người đã tạo ra chú cừu nhân bản đầu tiên (cừu Dolly) đã đề xuất các ổ gen có thể giải quyết một cách nhân đạo vấn đề cóc mía của Úc. Những con cóc độc xâm nhập vào Hawaii vào năm 1935 và đã giết chết hầu hết mọi loài động vật cố gắng ăn chúng kể từ đó. Các nhà khoa học cũng đề xuất kiểm soát loài sóc xám bằng các ổ gen, để cứu loài sóc đỏ bản địa ở Vương quốc Anh.
7. Chúng ta sẽ đưa nấm vào không gian

Nấm sẽ được thử nghiệm làm vật liệu xây dựng trong vũ trụ.
Nếu chúng ta phải chạy trốn khỏi Trái đất để cư trú ở nơi khác trong thiên hà, bạn có biết chúng ta cần phải mang theo những gì không? Nấm. Hay đúng hơn là bào tử nấm. Không phải để nuôi chúng ta trên chuyến bay di cư, mà là để phát triển và xây dựng ngôi nhà mới của chúng ta.
Đó là suy nghĩ đằng sau dự án kiến trúc myco của NASA. Cơ quan vũ trụ đang đưa ra kế hoạch phát triển các tòa nhà làm từ nấm trên sao Hỏa. Theo nhà sinh vật học Lynn Rothschild, nhà nghiên cứu trong dự án, chi phí cho việc đưa một tòa nhà có kích thước như ngoài đời vào không gian là không tưởng, thay vào đó chúng ta có thể mang một số dạng sống thực tế mà gần như không trọng lượng để làm những vật liệu xây dựng tự nhiên. Chúng tôi muốn mang theo ít nhất có thể và chúng tôi muốn tận dụng các tài nguyên “ở đó” – cô nói.
Nhiều loại nấm phát triển và nhân rộng bằng sợi nấm – mạng lưới các sợi giống như sợi tạo thành các vật liệu chắc chắn có khả năng phát triển để lấp đầy bất kỳ vật chứa nào.
Trên trái đất, các cấu trúc được làm từ nấm đã được sử dụng để làm bao bì cho các chai rượu và làm vật liệu giống như ván dăm, và Rothschild cho thấy chúng thậm chí có thể được sử dụng để tạo thành những nơi trú ẩn cho người tị nạn. Trên sao Hỏa, các sinh vật sẽ cần một ít nước để phát triển, lượng nước này có thể đến từ băng tan.
Các nhà nghiên cứu dự tính rằng nấm sẽ được cho vào trong các túi lớn, mà sẽ được bơm căng khi hạ cánh, để cung cấp một vật chứa để cho nấm lấp đầy. Những túi này sẽ chứa nguồn thực phẩm ở dạng khô và mang lại lợi ích bổ sung trong việc ngăn ngừa ô nhiễm không khí đối với nấm. Khi các cấu trúc đã được phát triển đầy đủ, một bộ phận làm nóng sẽ được kích hoạt và nướng mạng lưới sợi nấm như bánh mì để làm cứng nó.

Tuy nhiên, nếu bạn tưởng tượng ra các tòa nhà hữu cơ được làm từ những bức tường giống như những lát bánh mỳ nâu thì có lẽ bạn đã làm. Các vật liệu hiện tại của Rothschild có thể được tô điểm bằng cách thêm các sắc tố màu, thông qua chỉnh sửa gen.
Rothschild đã có một chiếc ghế làm bằng myco trong văn phòng của cô, và mất hai tuần để hoàn thành chiếc ghế này và nhóm của cô có kế hoạch xây dựng một công trình với quy mô đầy đủ. Nhưng đối với các sứ mệnh không gian trong tương lai, họ muốn gửi một nhóm robot tiên tiến để thực hiện công việc cho họ.
“Khi tôi đi du lịch, tôi muốn có một khách sạn để nghỉ ngơi. Tôi không muốn khi đến sân bay và họ nói rằng “chúng tôi sẽ xây dựng khách sạn vào tối nay” và vì vậy tôi nghĩ rằng tình huống lý tưởng sẽ là gửi các nhiệm vụ tiền trạm nơi những công trình này sẽ được dựng lên.” Rothschild chia sẻ.
8. Bệnh nhân bị liệt có thể đi lại trở lại

Bệnh nhân bị liệt được ghi danh vào các thử nghiệm lâm sàng đã đi lại được nhờ vào công nghệ thần kinh tiên tiến.
Năm 2018, các nhà khoa học Thụy Sĩ và Vương quốc Anh tuyên bố họ đã đặt cấy ghép tín hiệu thần kinh vào cột sống của ba người đàn ông bị liệt trong các vụ tai nạn đường bộ và thể thao. Giờ đây, cả ba người này có thể đi bộ một khoảng cách ngắn.
Và chỉ vào năm ngoái, trong một cuộc trình diễn như những bộ phim khoa học viễn tưởng, các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học Grenoble ở Pháp đã sử dụng một khung xương trợ lực để cho một người đàn ông 28 tuổi sử dụng lại chân tay của mình sau khi bị ngã và gãy cổ. Người đàn ông sử dụng hai bộ cấy não 64 điện cực để điều khiển bộ đồ robo này.
9. Công cụ ngôn ngữ tự nhiên sẽ trở nên vô cùng thật

Trợ lý ảo, như Alexa, Siri hoặc Google Voice, sẽ bắt đầu định hình lời nói của chúng ta.
Viễn cảnh về việc điều khiển các thiết bị của chúng ta thông qua lời nói đang trở thành hiện thực, mặc dù chúng chỉ có thể xử lý các lệnh hoặc yêu cầu đơn giản và các mẫu giọng nói của chúng nghe có vẻ như robot. Bước tiếp theo là khiến chúng hiểu và trả lời bằng ngôn ngữ tự nhiên – loại trao đổi đàm thoại mà con người sử dụng.
Google dường như đã đạt được tiến bộ đột phá khi công bố hệ thống duplex của mình vào năm 2018. Một tiện ích bổ sung cho ứng dụng Trợ lý của mình, Duplex sử dụng các loại AI tinh vi hơn để hiểu và sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để đặt bàn nhà hàng và các cuộc hẹn làm tóc hoặc hỏi các doanh nghiệp về giờ mở cửa. Nếu việc đặt chỗ không thể được thực hiện trực tuyến, Trợ lý sẽ bàn giao cho Duplex, họ sẽ gọi cho nhà hàng và nói chuyện với nhân viên để đặt chỗ cho bạn.
Theo báo cáo, những người nói chuyện với Duplex cho biết họ đã không nhận ra rằng họ đang nói chuyện với một chiếc máy. Vấn đề là, khi Duplex gặp một tình huống khó xử lý, thì nó vẫn cần sự hỗ trợ của con người. Mặc dù thất bại trong lần này, Google và các nhà phát triển khác vẫn đang tìm cách đưa ngôn ngữ tự nhiên vào thiết bị của chúng ta.
10. Bộ não con người sẽ được lập bản đồ

Hiểu được bộ não con người là một nhiệm vụ và thách thức to lớn, nhưng điều đó không ngăn các nhà khoa học thần kinh bước lên để đối đầu với thách thức. Trong đó có thể kể đến như Dự án BRAIN (Não bộ), một trong những dự án lớn nhất từ trước đến nay do EU tài trợ, Sáng kiến BRAIN trị giá 5 tỷ USD ở Mỹ và Dự án Brain China được công bố gần đây.
Một trong những mục tiêu của sáng kiến Hoa Kỳ, được giới thiệu vào năm 2013, là lập bản đồ tất cả các tế bào thần kinh trong não cũng như các kết nối của chúng. Bắt đầu với bộ não chuột, quan điểm là hướng tới cùng một mục tiêu ở con người.
Joshua Gordon, một trong những giám đốc dự án của Viện Y tế Quốc gia (NIH) cho biết, nó có thể giúp chúng ta “bẻ khóa các code mà bộ não sử dụng để điều khiển hành vi.” Nhưng anh ấy thừa nhận rằng đây không phải là câu chuyện ngày một ngày hai.
Lấy ví dụ về Dự án bộ gen người, một bản đồ đơn giản đã giải đáp cho nhiều thắc mắc và cũng phải mất nhiều năm để tìm ra các đặc điểm vật lý của não liên quan đến ký ức, suy nghĩ, hành động và cảm xúc.
Để bắt đầu, các “code” trong bộ não của bạn có thể được viết thành một chuỗi các chữ cái. Theo Gordon, bước đầu tiên là xây dựng một “danh sách bộ phận” gồm các loại nơ-ron khác nhau và sau đó ánh xạ từng bộ phận đó vào không gian vật lý.
Hiện tại, “danh sách bộ phận” của chuột đang được tiến hành tốt, trong khi tương đương với con người thì có thể phải mất thêm 5 đến 10 năm nữa. Nhưng để hiểu làm thế nào những phần này tạo ra hành vi thì thậm chí sẽ còn khó khăn hơn nữa.
“Sau đó, mỗi bộ phận đó cũng sẽ có một nhóm chức năng riêng.” Cuối cùng, cần có đủ chi tiết trong bản đồ để giải thích cách các nơ-ron trong các mạch não nhất định hoạt động ở cấp độ phân tử, để tạo ra các hành vi cụ thể.
Các công nghệ đang được phát triển cũng sẽ có tác động rộng lớn hơn đến khoa học thần kinh, bao gồm nghiên cứu về một loạt các rối loạn não từ bệnh động kinh đến Parkinson.
Giải trình tự đơn bào nhanh chóng hiện nay cho phép các nhà khoa học thu thập nhanh chóng dữ liệu từ hàng trăm ngàn tế bào thần kinh riêng lẻ, làm nổi bật DNA trong các tế bào đó. Trong khi đó, các công cụ hình ảnh tiên tiến giúp nghiên cứu tế bào thần kinh một cách chi tiết và theo dõi các hoạt động của chúng trong thời gian thực .
(Còn tiếp)
Nguồn: Science Focus